Thứ Ba, 30 tháng 12, 2008
thơ cuối năm
anh sống một nơi không gió mùa đông bắc
không còn nghe ai hỏi chuyện trăng tàn
chẳng bụi chuối sau hè bờ tre trước ngõ
tháng tận năm cùng trắng mắt đồng hương
dẫu chiếc xe đưa mười mấy chục dặm đường
anh cũng chưa ra khỏi vòng phố lạ
làm một người đi mà lòng kẻ ở
tờ lịch phiêu bồng chưng hửng mùa xuân
em bên quê anh bên trời đã lạc
lạc cõi nào nửa cuối phần tóc xanh
cánh dơi nhỏ bay qua đời khuya khoắc
vách đá hoa cương từng rớm lệ Ngũ Hành
có chiếc tượng hồn sau vuông cửa sổ
cứ thâm đêm nỗi nhớ gửi trong chiều
anh cuối năm ngõ ngàng ly rượu gạo
rượu với người cùng nhẵn mặt đìu hiu
tình mãi buộc hiên sân mà thân hoài trôi nổi
để khi không chừng mỏi cái giang hồ
biết em hỏi giao thừa sao vầng trăng biệt xứ
rồi chong đèn chép lại những câu thơ ...
1995
hoàng lộc
nửa chừng bước mỏi
còn anh bước giữa hao mòn
cây khô năm bảy nhánh buồn quắt queo
đèn trời thêm lượt tàn, khêu
sáng thêm chốc nữa rồi theo gió lùa
còn anh với cõi mơ hồ
rã riêng cố sự dật dờ lửa hương
khó lòng em chút yêu thương
đã cam tay bắt tay buông chẳng chừng
em về trắng mắt người dưng
phố xin biển nhịn mấy trùng sóng chao
tóc mai có ướt ngọn sầu
trái tim chắc hiểu vì đâu bồi hồi ?
còn anh bước mỏi bên đời
thương em, đứng lại ngó trời . phân vân ...
25-03-03
hoàng lộc
Thứ Hai, 29 tháng 12, 2008
từ xó đời ta
xó đời ta ơi em mà thấy được
chắc gì lòng kia chẳng khác ngày xưa
nếu sống lại mấy lần chiến quốc
ta chắc gì là tay kiếm xuân thu ?
nên đời ta với đèn khuya với rượu
vui gì hơn tình sử lật đôi tờ
ta mà được như người làm truyện cổ
thì chắc lòng em vẫn cứ ngày xưa
xó đời ta ơi bút cùn mực nhạt
em nhìn lui mới biết chuyện không đành
nhưng nếu chút lòng xưa em chẳng khác
thì đọa đày ta dễ uổng thân xanh
trăm năm đó em vẫn là con sáo
thiếu gì đường bay mà phải qua sông
tình đến thế mà lưng chừng em bỏ
đời thơ ta rồi cũng bỏ lưng chừng
vẫn tin được em chưa hề bất nghĩa
ta ru ta bằng một tiếng thở dài
tình muốn lớn mà lòng em không thể
đời phải buồn cho đủ những cơn say
thôi có lật thêm nghìn trang cổ sử
người như em hồ dễ gặp hai lần
ta bứt tóc giữa tang điền thương hải
phải chi lòng em còn chỗ dung thân ?
1984
hoàng lộc
Thơ: Hoàng Lộc
Nhạc: Lê Đình Bích - Người hát: Mỹ Hạnh
Lê đình Bích qua nét vẽ của Chu Hoạch
và qua giọng hát của Mỹ Hạnh với hòa âm của nhạc sĩ Bùi Đức Thịnh mà một người nước ngoài sành nhạc đánh giá
Bản tiếng Anh
Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2008
khi trời chuyển
khi trời chuyển mưa đêm
ta rêm mình khó ngủ
tình cũng chuyển trong em
cho đời ta trăn trở
sống là theo ý trời
chết lúc nào chẳng được
tình gặp bữa không vui
em với trời giống đúc !
hoàng lộc
Thứ Hai, 22 tháng 12, 2008
mùa giáng sinh thứ ba
khi ở tháng mười hai - biết mình đã qua thêm mười hai tháng nhớ
mùa giáng sinh năm nào từng nến trắng đêm xanh ?
Chúa đã lớn khôn sao ta hoài nắng gió
em nhận - dẫu khôn cùng - những khắc khoải tình anh
anh sống vốn lông bông như thằng ngoại đạo
nghĩ giáo điều, kinh điển ấy : trò chơi !
nghĩ nhánh cây hung chim chừa, chẳng đậu
chẳng lẽ trần gian ni lại có mặt Chúa Trời !
từ được yêu em - lắm điều khó tin mà có thật
như đêm ba mươi có thể có trăng rằm
như cuối đời anh chợt đen từng ngọn tóc
hạnh phúc tuyệt vời là khốn khó trần thân
hạnh phúc ngọt ngào của trái tình đắng chát
như môi em khép mỗi nụ hôn đành ?
dẫu là thiên thần, vẫn có những thiên thần vô phúc
em - ta khổ nhiều rồi - sao còn bị đóng đinh ?
mùa giáng sinh thứ ba - anh thành cao đồ của Chúa
tình yêu của Người : tình yêu của em cho
ta có thêm nến hồng, thêm ánh lửa
em sợ gì đêm đông - ngọn bấc ấy mơ hồ !
hoàng lộc
Thứ Bảy, 20 tháng 12, 2008
chuyện lạ về giáng sinh
tranh Farquharson (1846-1935)
trong lòng anh - Chúa đã giáng sinh rồi
đã mấy tháng, từ trước ngày tháng chạp
những sự lạ - nếu em còn tin được
mời em về thăm Chúa-giữa-lòng-anh !
chuyện, việc - nhiều khi nhan nhản đời quanh mà mới nghe qua, người ta bảo lạ
như việc Chúa ra đời trong hốc đá
giữa những người chăn và những con cừu…
đừng cho cừu và Chúa phải khác nhau
Chúa của trời - còn cừu kia của đất
hãy mặc cái thanh được gần cái tục
thì chuyện đời chẳng lạ lắm đâu em !
như đời anh rách nát, đó em xem
chừng ấy năm qua mưa dầm nắng dải
càng che dấu càng lòi thêm tệ hại
ấy mà nơi Chúa chọn để ra đời !
có lẽ tình yêu quen cửa nhà trời
ở đó không so bì, đắn đo, tính toán
như gió lành, hương hoa và ánh sáng
Chúa cho mọi người - có kén chọn gì đâu?
mời em về thăm Chúa thử ra sao
qua mấy tháng, kể Chúa tròn trĩnh lắm ?
nghĩ Đức Mẹ ghé lòng anh quá chậm
sinh trước vài năm, chắc Chúa lớn khôn rồi!
em hãy về ngó Chúa để tin, vui
dẫu đã nghìn lần ngó trên tượng, vẽ
em chớ giật mình : Chúa đâu lạ thế
sao mặt mày cứ giống hệt tình anh !
hoàng lộc
Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2008
bữa đợi tàu ở New Orleans
ngồi đây bỗng hiểu thêm đời
hiểu thêm em để than trời - được không ?
dẫu cho cái nắng muôn trùng
dễ soi đến chỗ tận cùng trái tim
phi trường sớm vắng người lên
một ta sầu gật gù trên ghế chờ
thản nhiên một chút tình hờ
(ơi em rồi chẳng bao giờ tiễn anh !)
ngồi nghe nhức mỏi xương mình
lóng tay nào cũng bật thành tiếng kêu
thôi đừng phố biển nhìn theo
sợ khi trăng mọc thuỷ triều lại dâng ...
12-9-1999
hoàng lộc
Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2008
ta rất vô cùng
lắm bữa chạy vòng vo khắp phố
tình như trai mới, hồn rượu đầy
ta thất thanh giữa trời thiếu nữ
mà chẳng hề em có ở đây !
có thể em là Bích là Uyên…
vẫn tuyệt vời những giấc mơ điên
để ngậm ngùi trăng xưa thiếu phụ
như những câu thơ đã thất truyền
có thể rằng em là Tiểu Thanh
một tờ sương khói ấy bồng bênh
ví chẳng tro than ngày hoa uyển
thì dễ đâu ta tàn thân danh ?
cái chi không chắc cần hơn thế
để một đời ta sống với thơ
có phải chính em là chiếc rể
mà cây ta đã gửi lòng nhờ ?
ta rất vô cùng, ôi gái đẹp
em về chưa chắc dịu đời tham
trời đất sẽ vô cùng tịch mịch
nếu cứ hoài em, một chút trăng …
hoàng lộc
Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2008
thơ Hoàng Lộc với Trần Doãn Nho
( Tháng 10 – 1999, ở “phố học” Boston, MA - với sự bảo trợ của nhà thơ Phan Xuân Sinh và phu nhân, ĐÊM THƠ TÌNH HOÀNG LỘC được tổ chức, với sự tham dự của gần 200 bạn văn và đồng hương.
Trong tình thân, nhà văn Trần Hoài Thư giới thiệu tác giả, nhà văn Trần Doãn Nho nói về tập thơ Qua Mấy Trời Sương Mưa và nhà thơ Trần Trung Đạo dẫn dắt chương trình.
Tôi chép lại bài nói của Trần Doãn Nho trong đêm đáng nhớ ấy. Sau đó bài nói này đã in lại trong tạp chí Thế Kỷ 21 , California, Hoa Kỳ. )
Tôi đọc thơ Hoàng Lộc từ những năm cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 trên một số tạp chí văn học hàng đầu ở Sài Gòn như Văn, Bách Khoa, Khởi Hành…Thời gian đó, nói không ngoa lắm, là thịnh thời của những nhà văn, nhà thơ đất Quảng. Nhiều tên tuổi nổi bật trên văn đàn như Thái Tú Hạp, Nguyễn Nho Sa Mạc, Luân Hoán, Đinh Trầm Ca, Hà Nguyên Thạch, Huy Tưởng, Thành Tôn, Nguyễn Nho Nhượng bên cạnh tên tuổi của những nhà văn, nhà thơ khác ở nhiều vùng khác nhau như Trần Hoài Thư, Hồ Minh Dũng, Nguyễn Bắc Sơn, Lâm Chương, Lê Bá Lăng, Lương Thái Sĩ, Mường Mán, Cao Thoại Châu, Chinh Yên, Trần Dzạ Lữ…Tất cả đều là những khuôn mặt mới toanh trên văn đàn miền Nam. Họ là những người thuộc thế hệ trẻ lớn lên trong không khí văn học khá tự do đang trên quá trình dân chủ hóa. Hầu hết trong số họ là những người lính, đang cầm súng hay cầm bút. Tuy trong tình trạng chiến tranh, trong tư thế phải chọn một lập trường chính trị, nhưng các tác phẩm của họ thường không mang màu sắc chính trị. Họ vẫn chiến đấu như những người lính và vẫn viết văn, làm thơ như những con người. Họ vào trận mạc trong lúc vẫn suy tư về cuộc đời , về sự nghiệp và về chiến tranh theo trái tim riêng của họ đồng thời thể hiện chúng qua những bài thơ và giòng văn. Chính vì thế, mà cuối cùng, tuy chiến bại, những tác phẩm của họ vẫn góp phần tạo nên một nền văn học thực sự cho miền Nam cũng như cho đất nước.
Nói riêng về thơ, mỗi người trong số họ có một phong cách riêng, có một cách nhìn ngắm cuộc đời và cách đưa vào văn chương riêng, nhưng vô hình chung, họ cùng nhau tạo nên một giọng thơ khá riêng biệt trong nền văn học, nhất là thơ tình. Giòng thơ đó không quá mới mẻ, đôi khi bí hiểm hay đầy chất trí tuệ như xu hướng của một số nhà thơ tự do, không cổ điển như kiểu Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, và cũng không đến nỗi "tiền chiến', sáo mòn như kiểu thịnh thời Thơ Mới. Có thể nói, thơ của họ phảng phất chút thơ tự do, chút thơ cổ điển, chút tiền chiến.
Chúng ta hãy đọc thử một số đoạn thơ trích từ một số bài thơ của nhiều người khác nhau trong số họ:
Chiều cuối năm, ngồi trên tầng phố cũ
Trời quê hương nhiều mây trắng sa mù
Hai mươi tuổi những ngày nuôi mộng đỏ
Đã xanh rồi cây trái mọc suy tư
(Nguyễn Nho Sa Mạc)
Có bao giờ thích tiễn đưa ai
Đưa tiễn vốn chỉ hay nhàm chán
Đời trăm năm mập mờ như bóng nắng
Đưa một người làm trống phía sau lưng
(Cao Thoại Châu)
Em đừng hỏi ở rừng có chi lạ
Có gì đâu bia mộ dựng trong hồn
Bạn bè ta ưu tư ngủ gục
Với rừng già rách nát thương tâm
(Trần Dzạ Lữ)
Núi mờ, những sợi mưa bay
Nghiêng nghiêng mái cũ, lạnh đầy hồn không
Bước theo những giọt vô cùng
Mưa. Mưa. Hạt lệ mù trong đất trời
(Hồ Ngạc Ngữ)
Hãy tưởng tượng mỗi lần nói đến Huế
Về những căn nhà ma
Ngõ vào hai bên là hai hàng cây kiểng
Tường những rêu phong
Đẹp như tranh tĩnh vật
Đời như cỏ cây
Đời sống mịn màng
(Sương Biên Thuỳ)
Hồn ta đã mấy lần mây trắng
Phảng phất đời em tắm bến xưa
Hồn ta có một thời phiêu lãng
Trú thân buồn vương ngọn lưa thưa
(Từ Hoài Tấn)
Những sớm mai, những sớm mai hồng
Bên đồi tây, anh nhớ đồi đông
Nhớ đôi mắt biếc màu thu ướt
Nhớ tóc đuôi gà em trước sân
( Hoàng Đình Huy Quan)
Dường như đứa trẻ nghìn năm trước
Bây giờ đây vẫn trẻ trong ta
Khi về râu tóc còn nguyên vẹn
Một ngày loáng thoáng một ngày qua
(Nguyễn Bắc Sơn)
Có phải em Sài Gòn
Kiêu sa và hoa lệ
Hồn nhiên và tươi trẻ
Chưa biết gì chiến tranh
Chiến tranh thì mặc, em đừng sợ
Trò chơi cầm súng vẫn còn dài
Cứ liếc nhìn anh rồi cắn miệng
Hay cúi đầu như thể hổ ngươi
(Trần Hoài Thư)
Từ em đi những tháng ngày xa lạ
Những tháng ngày máu đỏ chẳng về tim
Tôi vẫn đứng trong khu vườn thương nhớ
Nghe mưa bay hiu hắt lạnh trong hồn
(Lâm Chương)
Tứ thơ, không khí thơ phảng phất cũ, phảng phất mới. Ý thơdung dị, chơn chất. Hiện thực đời thường tan hòa trong những suy gẫm nhân sinh và những rung động tinh tế của trái tim trước cuộc sống, tạo nên những hình ảnh khiến ta bâng khuâng, buồn buồn. Chúng mang lại một chút gì dịu nhẹ, êm đềm nhưng thấm thía. Giòng thơ này, qua nhiều biến động long trời lỡ đất của đất nước, vẫn còn tồn tại ở lớp người làm thơ đó và truyền lại sức sống cho những thế hệ làm thơ sau. Nó vẫn còn ảnh hưởng khá mạnh mẽ trên văn đàn hải ngoại - và một phần nào đó, cả ở trong nước.
Hoàng Lộc làm thơ trong không khí đó, trong giòng thơ đó. Anh đã đeo đẳng nó, ôm ấp nó từ thuở đầu làm thơ cho tới bây giờ. Anh viết hoài viết mãi như thể anh vẫn chưa nói hết những điều anh muốn nói. Những bài thơ trong tập "Qua mấy trời sương mưa" (QMTSM) in theo thứ tự thời gian. Đó là những bài thơ chắc lọc trong ba mươi năm làm thơ, trải qua bao nhiêu thăng trầm của số phận một đời người.
"Thơ trải dài qua ba thập niên, mà thi tập như một khối nhất quán, như tác giả vừa chụp lấy bút viết một mạch trong một đêm" (Văn Học).
Bài thơ đầu tiên đề năm 1969 và bài thơ cuối đề năm 1999. Tuy đề cập tới nhiều chủ đề khác nhau, QMTSM rõ ràng vẫn là một tập thơ tình. Hầu hết các bài thơ đều nói lên những bâng khuâng, e ấp, những day dứt, những sầu, những nhớ, những giận hờn, tiếc nuối, những rung động về tình yêu. Anh làm thơ tình trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngay cả trong hoàn cảnh thân tàn ma dại của một tù nhân, của một người lính thất trận hay trong thân phận lưu lạc xứ người.
Cái tình đeo đẳng lấy anh như một loại "sinh tử phù".
Một đoạn thơ làm năm 1972:
Khi anh về bất ngờ anh biết khóc
Qua hiên nhà người bé vào lớp học
Bé đâu hay thành phố đã lên sương
Là khi anh cúi xuống một đời buồn
Năm 1987, khi ở tù về:
Em có bàn tay dịu dàng mấy ngón
Có ngón nào của cô bé ngày xưa
Chỉ một lần vuốt nhẹ trái tim thơ
Mà vết xước đủ một đời máu ứa
Khi ở Hoa Kỳ:
Em phía hoàng hôn, anh bình minh
Hai bìa trái đất gió chênh vênh
Một sao lấp lánh đôi bờ lệ
Từng sớm hôm soi một chữ tình
Chúng ta vừa đọc qua ba đoạn thơ của Hoàng Lộc qua ba chặng đời khác nhau: một Hoàng Lộc trẻ, một Hoàng Lộc ở tù về và một Hoàng Lộc lưu lạc. Ý thì có khác, dĩ nhiên. Nhưng tứ thơ, không khí thơ và trái tim nhà thơ thì dường như vẫn thế: yêu. Chan chứa yêu, đằm thắm yêu, say sưa yêu. Yêu không biết mệt mỏi. Ta có thể nói, anh bày ra "cuộc yêu" trong đời của anh và trong thơ của anh. Ở hoàn cảnh nào, Hoàng Lộc cũng có thể làm thơ tình một cách hồn nhiên, một cách bình thường, y như thể thế giới này không có gì khác hơn ngoài tình yêu trai gái, bởi vì suốt đời anh là một "đời tình":
Ta mãi lơ mơ suốt một đời tình
Mãi lưu lạc những hiên nhà gái đẹp (tr 88)
Tôi không rõ nhà thơ đa tình Hoàng Lộc đã trải qua bao nhiêu hiên nhà gái đẹp, nghĩa là trải qua bao nhiêu lần yêu và thất tình và yêu và thất tình - nhưng rõ ràng là tình anh bao giờ cũng nóng hôi hổi. Yêu một lần nóng đã đành, yêu lần hai lần ba lần bốn cũng cứ nóng. Nóng, và da diết.
Bài thơ đầu trong tập:
Mịt mù cõi thế
Ngơ ngẩn đường chim
Công hầu coi nhẹ
Nhớ màu mắt em (tr. 10)
Bài thơ cuối tập:
Đã yêu ở Hội An
Tình đã ra cửa Đợi (198)
Lúc chừng hăm mấy:
Trải cho em cả tấm lòng
Mất toi đến cái khốn cùng của ta
Lúc chừng năm mươi mấy:
Để biết yêu em từ thuở ấy
Đời ta rồi nỗi khổ vô lường
Biết, ta biết trước mà hay vậy
Không có em càng sợ khổ hơn (129)
Bởi chỉ vì em
Ta dính dáng với đời này (145)
Trong những ngày thua trận:
Đã vắng đầu lâu treo cổ ngựa
Mất em, cũng ý lạnh sa trường
Khi về tình rã theo tay mỏi
Nhìn bóng tàn quân rủ khói sương (tr. 37)
Lúc ở tù về:
Về, ta gặp phố sầu u
Ta yêu em với ta tù tội đây (49)
Như thế, cũng như nhiều nhà thơ khác, tình yêu của anh không hề có tuổi. Có lẽ vì người yêu (hay nhiều người yêu) của HL dường như không có tuổi. "Em" có thể lớn lên, khác đi, nhưng không già. Em bao giờ cũng thế, lãng đãng nhưng mặn mòi. "Em"(cũng như "cá thể hóa" như Hoàng thị Ngọ của Phạm Thiên Thư, Tố của Vũ Hoàng Chương) là một hình tượng vĩnh cửu. "Ta" hay "anh" cũng thế. "Em" hay "ta" hay "anh" được đẩy lên thành một mẫu, một dáng, một nét, một tính cách. "Em" là một cái khác của "ta", của "anh". Bắt chước lối nói của Mai Thảo, ta có thể cho rằng "em" trong thơ HL là một hoài hoài tìm kiếm, một hoài hoài đuổi bắt, một hoài hoài lạc nhau và một hoài hoài tiếc nuối.
Bởi thế mà tình của HL dường như lúc nào cũng là một thứ tình lỡ, tình trễ, tình mất, tình phụ. Anh viết:
Muôn năm, anh là người đến trễ
Chỉ vì:
Ta kiếm quẩn quanh trời cố xứ
Hồng nhan, hồng nhan - ta chiêm bao (28)
Tình anh, rốt cuộc, bao giờ cũng quạnh vắng, hiu hắt:
Em hãy đốt lên giùm anh ngọn lửa
Thử ngọn tình hiu hắt tới bao lâu (108)
Cho nên, cuối cùng:
Yêu vô vàn cũng rớt giọt tình không (19)
Tình yêu đó là "ngọn tình", "giọt tình". Ngọn hay giọt là một cái gì mong manh, chập chờn, thoáng chốc. Tất cả chỉ vì người tình của anh luôn luôn trốn chạy, luôn luôn có đó và không đó, luôn luôn không bao giờ bắt được, luôn luôn thoát khỏi anh:
Mưa ngày xưa bây giờ chưa biết
Buồn đời ta, không đời ai bằng
Ngày xưa, ôi cái ngày xa lắc
Mà em đi chẳng nói chẳng rằng (54)
Đã tới ngày em bỏ quên ta
Che tay kỷ niệm ngó mơ hồ
Nắng gió trong lòng em bất chợt
Em vừa giết một đứa làm thơ (32)
Không những chỉ thế. Thử nghe HL tâm sự trong những giòng
khác:
Những sớm qua cầu, ta gọi bớt hơi sương
Những trưa khô che dùm tóc mỏi
Con đường quen bụi lầy cố xứ
Em về, ta lặng lẽ mưa bay (145)
Áo trắng em qua trời phố nhỏ
Khi lòng ta còn muốn làm mây
Dẫu nhiều năm cùn mòn vó ngựa
Vẫn hí tương tư những tiếng đầy (126)
Vậy thì đã rõ, đâu phải chỉ mình em trốn khỏi tôi, mà ta cũng trốn khỏi em. Nói đúng hơn, anh và người tình của anh luôn luôn trốn khỏi nhau.Trên sân khấu cuộc đời, hình như họ luôn luôn đánh mất nhau. Và có thể vì vậy mà họ yêu nhau, cần phải yêu nhau. Hay nói một cách khác nữa, tình yêu vốn ở chỗ hoài hoài thất bại:
Về, ta sững cuộc đổi đời
Đổi đời ta nhỏ hơn đời đổi em
Còn nhau đâu mà trông tìm
Mất nhau từ thuở chưa chìm nổi kia (50)
***
Tình của Hoàng Lộc còn dính dáng đến rượu. Có lẽ ít tập thơ tình nào có nhiều rượu như tập thơ tình HL. Tôi hơi tò mò: toàn tập thơ có 12 bài có tựa đề mang từ "rượu". Và ít nhất 12 bài khác có "hơi rượu". Tất nhiên, hầu hết là "rượu tình" (hay là tình rượu?). Theo tôi, nhưng bài thơ có hơi rượu nằm trong số những bài hay nhất trong tập thơ của Hoàng Lộc. Tình nhiều. Mà rượu cũng lắm!
Đối với người đông phương, rượu mang nhiều ý nghĩa. Và do đó, nó đã đi vào văn chương từ ngàn xưa:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Và nay:
Chén tiễn chén đưa
Cho rã rời một đêm hẹn ước
Xếp áo tìm vui nơi chiến trường có bạn có thù (Trầm Tử Thiêng)
Rượu, hay chén rượu đã thành tập tục, hơn thế nữa, một nghi lễ, một sinh hoạt khá thiết thân: rượu khi vui, rượu khi buồn, rượu dành lúc tiễn đưa, rượu mừng ngày hội ngộ. Nhiều khi chén rượu được rút gọn thành chén: chén quan hà, chén ly bôi, chén hoàng hoa, chén tiễn chén đưa, đánh chén. Rượu giúp con người hưng phấn, quên buồn và đa tình như HL. Rượu của HL dính với tình, quanh quẩn với tình. Anh uống khi chia xa, lúc gặp gỡ, khi tiếc nuối, lúc buồn phiền, khi thất chí. Anh uống một mình hoặc với bạn hoặc với người yêu. Nhiều lúc anh uống tưởng tượng và say tưởng tượng.Ta chẳng biết anh uống rượu hay uống tình, anh say rượu hay say tình. Tôi tò mò tìm xem cái loại rượu của anh HL là loại gì và cách anh uống như thế nào. Này nhé, trong HL, ta có: rượu hồng nhan, rượu hoàng hoa, rượu tàn đông, rượu tống mùa thu, rượu buồn, rượu đắng, rượu nồng, rượu thất tình, rượu chiều, rượu tàn niên, rượu khốn cùng, rượu điêu tàn - và có lẽ còn nữa, nhưng tôi tìm chưa hết.
Vài đoạn thơ có rượu:
Đời nhỏ tưởng chừng dăm hớp rượu
Ai hay sầu chật một hồn đời
Ta kiếm quẩn quanh trời cố xứ
Hồng nhan, hồng nhan, ta chiêm bao (28)
Mặc những lần xuân tuyệt mù trước ngõ
Mặc những loài chim không hề hót nữa
Rót rượu buồn đi - hồng nhan, hồng nhan
Anh uống giùm cô chỗ rượu điêu tàn(100)
Bữa rượu chiều ta,em ở đâu?
Mang mang lưng chén cái thương sầu (130)
Giá có em cùng chia chút rượu
Dễ khi gió đã lặng bên trời (151)
***
Hoàng Lộc yêu, Hoàng Lộc thất tình, Hoàng Lộc uống rượu. Yêu đủ cách mà uống rượu cũng đủ cách. Đa đoan quá chăng? Nát rượu quá chăng? Không ! Bên dưới những tình, những rượu đóchứa đựng một cái gì khác. Những bài thơ của Hoàng Lộc, rốtlại, y như một tiếng thở dài sâu lắng của cuộc tồn sinh. Tình của anh, như anh có lần bảo, đâu chỉ là tình, mà còn là một "nhịp thở trần ai":
Chia cho nhau từng nhịp thở trần ai.
Những cô em mười sáu tuổi hay những cô em "đổi đời" không có tuổi, những mối tình thấp thoáng hay mặn nồng, những gặp gỡ và dang dở tình cờ hay những chén rượu tình nồng chỉ là hình ảnh hiện thân cho nỗi bất an, khắc khoải trước những đổi thay liên tục , trước định mệnh, trước những phù phiếm, hư huyển của thời gian, của cuộc lữ. Chả thế, mà nhiều lần Hoàng Lộc nhắc đến chữ "biển dâu" trong thơ. Đời biển dâu mà tình cũng biển dâu :
Lúc anh về bé vừa lên mười sáu
Rất dịu dàng nhưng rất lạ đời anh
Khi đưa tay gõ vội trái tim mình
Nghe sai lỡ như một lần dâu bể (19)
Gió bên đời bỏ mặc lá thu bay
Rồi nếu cần em sẽ biển dâu ngay
Tình và rượu chứa đựng cái mất, cái còn:
Dễ những nương dâu bảo dừng biển lại
Mà cái mất cứ xui lòng khổ mãi (101)
Giá có em ngồi, ta kể lại
Mỗi biển xanh từng hóa ruộng dâu (151)
Cũng là dâu biển, nhưng trong một bài thơ khác, anh nói đến cuộc thăng trầm:
Rượu tàn niên chừ gió xa xăm
Gió chi thổi riết mấy mươi năm
Quán cô hồn một ta chớ mấy
Sợ - mà khinh - những cái thăng trầm (150)
Thăng trầm, biển dâu, đó là ám ảnh không nguôi chuyên chở trong những giòng thơ tình ngấm rượu của nhà thơ đất Quảng Hoàng Lộc, một "hào sĩ" như anh tự nhận trong một lần say khước ở Hội An, quê anh:
Nhớ em, nhớ buổi trăng tàn khuyết
Quán cuồng, hào sĩ cũng rưng rưng
Như ta, dễ một lần ta khóc
Em hát liêu trai khúc nguyệt cầm (29)
Trong tình thân, nhà văn Trần Hoài Thư giới thiệu tác giả, nhà văn Trần Doãn Nho nói về tập thơ Qua Mấy Trời Sương Mưa và nhà thơ Trần Trung Đạo dẫn dắt chương trình.
Tôi chép lại bài nói của Trần Doãn Nho trong đêm đáng nhớ ấy. Sau đó bài nói này đã in lại trong tạp chí Thế Kỷ 21 , California, Hoa Kỳ. )
Tôi đọc thơ Hoàng Lộc từ những năm cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 trên một số tạp chí văn học hàng đầu ở Sài Gòn như Văn, Bách Khoa, Khởi Hành…Thời gian đó, nói không ngoa lắm, là thịnh thời của những nhà văn, nhà thơ đất Quảng. Nhiều tên tuổi nổi bật trên văn đàn như Thái Tú Hạp, Nguyễn Nho Sa Mạc, Luân Hoán, Đinh Trầm Ca, Hà Nguyên Thạch, Huy Tưởng, Thành Tôn, Nguyễn Nho Nhượng bên cạnh tên tuổi của những nhà văn, nhà thơ khác ở nhiều vùng khác nhau như Trần Hoài Thư, Hồ Minh Dũng, Nguyễn Bắc Sơn, Lâm Chương, Lê Bá Lăng, Lương Thái Sĩ, Mường Mán, Cao Thoại Châu, Chinh Yên, Trần Dzạ Lữ…Tất cả đều là những khuôn mặt mới toanh trên văn đàn miền Nam. Họ là những người thuộc thế hệ trẻ lớn lên trong không khí văn học khá tự do đang trên quá trình dân chủ hóa. Hầu hết trong số họ là những người lính, đang cầm súng hay cầm bút. Tuy trong tình trạng chiến tranh, trong tư thế phải chọn một lập trường chính trị, nhưng các tác phẩm của họ thường không mang màu sắc chính trị. Họ vẫn chiến đấu như những người lính và vẫn viết văn, làm thơ như những con người. Họ vào trận mạc trong lúc vẫn suy tư về cuộc đời , về sự nghiệp và về chiến tranh theo trái tim riêng của họ đồng thời thể hiện chúng qua những bài thơ và giòng văn. Chính vì thế, mà cuối cùng, tuy chiến bại, những tác phẩm của họ vẫn góp phần tạo nên một nền văn học thực sự cho miền Nam cũng như cho đất nước.
Nói riêng về thơ, mỗi người trong số họ có một phong cách riêng, có một cách nhìn ngắm cuộc đời và cách đưa vào văn chương riêng, nhưng vô hình chung, họ cùng nhau tạo nên một giọng thơ khá riêng biệt trong nền văn học, nhất là thơ tình. Giòng thơ đó không quá mới mẻ, đôi khi bí hiểm hay đầy chất trí tuệ như xu hướng của một số nhà thơ tự do, không cổ điển như kiểu Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, và cũng không đến nỗi "tiền chiến', sáo mòn như kiểu thịnh thời Thơ Mới. Có thể nói, thơ của họ phảng phất chút thơ tự do, chút thơ cổ điển, chút tiền chiến.
Chúng ta hãy đọc thử một số đoạn thơ trích từ một số bài thơ của nhiều người khác nhau trong số họ:
Chiều cuối năm, ngồi trên tầng phố cũ
Trời quê hương nhiều mây trắng sa mù
Hai mươi tuổi những ngày nuôi mộng đỏ
Đã xanh rồi cây trái mọc suy tư
(Nguyễn Nho Sa Mạc)
Có bao giờ thích tiễn đưa ai
Đưa tiễn vốn chỉ hay nhàm chán
Đời trăm năm mập mờ như bóng nắng
Đưa một người làm trống phía sau lưng
(Cao Thoại Châu)
Em đừng hỏi ở rừng có chi lạ
Có gì đâu bia mộ dựng trong hồn
Bạn bè ta ưu tư ngủ gục
Với rừng già rách nát thương tâm
(Trần Dzạ Lữ)
Núi mờ, những sợi mưa bay
Nghiêng nghiêng mái cũ, lạnh đầy hồn không
Bước theo những giọt vô cùng
Mưa. Mưa. Hạt lệ mù trong đất trời
(Hồ Ngạc Ngữ)
Hãy tưởng tượng mỗi lần nói đến Huế
Về những căn nhà ma
Ngõ vào hai bên là hai hàng cây kiểng
Tường những rêu phong
Đẹp như tranh tĩnh vật
Đời như cỏ cây
Đời sống mịn màng
(Sương Biên Thuỳ)
Hồn ta đã mấy lần mây trắng
Phảng phất đời em tắm bến xưa
Hồn ta có một thời phiêu lãng
Trú thân buồn vương ngọn lưa thưa
(Từ Hoài Tấn)
Những sớm mai, những sớm mai hồng
Bên đồi tây, anh nhớ đồi đông
Nhớ đôi mắt biếc màu thu ướt
Nhớ tóc đuôi gà em trước sân
( Hoàng Đình Huy Quan)
Dường như đứa trẻ nghìn năm trước
Bây giờ đây vẫn trẻ trong ta
Khi về râu tóc còn nguyên vẹn
Một ngày loáng thoáng một ngày qua
(Nguyễn Bắc Sơn)
Có phải em Sài Gòn
Kiêu sa và hoa lệ
Hồn nhiên và tươi trẻ
Chưa biết gì chiến tranh
Chiến tranh thì mặc, em đừng sợ
Trò chơi cầm súng vẫn còn dài
Cứ liếc nhìn anh rồi cắn miệng
Hay cúi đầu như thể hổ ngươi
(Trần Hoài Thư)
Từ em đi những tháng ngày xa lạ
Những tháng ngày máu đỏ chẳng về tim
Tôi vẫn đứng trong khu vườn thương nhớ
Nghe mưa bay hiu hắt lạnh trong hồn
(Lâm Chương)
Tứ thơ, không khí thơ phảng phất cũ, phảng phất mới. Ý thơdung dị, chơn chất. Hiện thực đời thường tan hòa trong những suy gẫm nhân sinh và những rung động tinh tế của trái tim trước cuộc sống, tạo nên những hình ảnh khiến ta bâng khuâng, buồn buồn. Chúng mang lại một chút gì dịu nhẹ, êm đềm nhưng thấm thía. Giòng thơ này, qua nhiều biến động long trời lỡ đất của đất nước, vẫn còn tồn tại ở lớp người làm thơ đó và truyền lại sức sống cho những thế hệ làm thơ sau. Nó vẫn còn ảnh hưởng khá mạnh mẽ trên văn đàn hải ngoại - và một phần nào đó, cả ở trong nước.
Hoàng Lộc làm thơ trong không khí đó, trong giòng thơ đó. Anh đã đeo đẳng nó, ôm ấp nó từ thuở đầu làm thơ cho tới bây giờ. Anh viết hoài viết mãi như thể anh vẫn chưa nói hết những điều anh muốn nói. Những bài thơ trong tập "Qua mấy trời sương mưa" (QMTSM) in theo thứ tự thời gian. Đó là những bài thơ chắc lọc trong ba mươi năm làm thơ, trải qua bao nhiêu thăng trầm của số phận một đời người.
"Thơ trải dài qua ba thập niên, mà thi tập như một khối nhất quán, như tác giả vừa chụp lấy bút viết một mạch trong một đêm" (Văn Học).
Bài thơ đầu tiên đề năm 1969 và bài thơ cuối đề năm 1999. Tuy đề cập tới nhiều chủ đề khác nhau, QMTSM rõ ràng vẫn là một tập thơ tình. Hầu hết các bài thơ đều nói lên những bâng khuâng, e ấp, những day dứt, những sầu, những nhớ, những giận hờn, tiếc nuối, những rung động về tình yêu. Anh làm thơ tình trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngay cả trong hoàn cảnh thân tàn ma dại của một tù nhân, của một người lính thất trận hay trong thân phận lưu lạc xứ người.
Cái tình đeo đẳng lấy anh như một loại "sinh tử phù".
Một đoạn thơ làm năm 1972:
Khi anh về bất ngờ anh biết khóc
Qua hiên nhà người bé vào lớp học
Bé đâu hay thành phố đã lên sương
Là khi anh cúi xuống một đời buồn
Năm 1987, khi ở tù về:
Em có bàn tay dịu dàng mấy ngón
Có ngón nào của cô bé ngày xưa
Chỉ một lần vuốt nhẹ trái tim thơ
Mà vết xước đủ một đời máu ứa
Khi ở Hoa Kỳ:
Em phía hoàng hôn, anh bình minh
Hai bìa trái đất gió chênh vênh
Một sao lấp lánh đôi bờ lệ
Từng sớm hôm soi một chữ tình
Chúng ta vừa đọc qua ba đoạn thơ của Hoàng Lộc qua ba chặng đời khác nhau: một Hoàng Lộc trẻ, một Hoàng Lộc ở tù về và một Hoàng Lộc lưu lạc. Ý thì có khác, dĩ nhiên. Nhưng tứ thơ, không khí thơ và trái tim nhà thơ thì dường như vẫn thế: yêu. Chan chứa yêu, đằm thắm yêu, say sưa yêu. Yêu không biết mệt mỏi. Ta có thể nói, anh bày ra "cuộc yêu" trong đời của anh và trong thơ của anh. Ở hoàn cảnh nào, Hoàng Lộc cũng có thể làm thơ tình một cách hồn nhiên, một cách bình thường, y như thể thế giới này không có gì khác hơn ngoài tình yêu trai gái, bởi vì suốt đời anh là một "đời tình":
Ta mãi lơ mơ suốt một đời tình
Mãi lưu lạc những hiên nhà gái đẹp (tr 88)
Tôi không rõ nhà thơ đa tình Hoàng Lộc đã trải qua bao nhiêu hiên nhà gái đẹp, nghĩa là trải qua bao nhiêu lần yêu và thất tình và yêu và thất tình - nhưng rõ ràng là tình anh bao giờ cũng nóng hôi hổi. Yêu một lần nóng đã đành, yêu lần hai lần ba lần bốn cũng cứ nóng. Nóng, và da diết.
Bài thơ đầu trong tập:
Mịt mù cõi thế
Ngơ ngẩn đường chim
Công hầu coi nhẹ
Nhớ màu mắt em (tr. 10)
Bài thơ cuối tập:
Đã yêu ở Hội An
Tình đã ra cửa Đợi (198)
Lúc chừng hăm mấy:
Trải cho em cả tấm lòng
Mất toi đến cái khốn cùng của ta
Lúc chừng năm mươi mấy:
Để biết yêu em từ thuở ấy
Đời ta rồi nỗi khổ vô lường
Biết, ta biết trước mà hay vậy
Không có em càng sợ khổ hơn (129)
Bởi chỉ vì em
Ta dính dáng với đời này (145)
Trong những ngày thua trận:
Đã vắng đầu lâu treo cổ ngựa
Mất em, cũng ý lạnh sa trường
Khi về tình rã theo tay mỏi
Nhìn bóng tàn quân rủ khói sương (tr. 37)
Lúc ở tù về:
Về, ta gặp phố sầu u
Ta yêu em với ta tù tội đây (49)
Như thế, cũng như nhiều nhà thơ khác, tình yêu của anh không hề có tuổi. Có lẽ vì người yêu (hay nhiều người yêu) của HL dường như không có tuổi. "Em" có thể lớn lên, khác đi, nhưng không già. Em bao giờ cũng thế, lãng đãng nhưng mặn mòi. "Em"(cũng như "cá thể hóa" như Hoàng thị Ngọ của Phạm Thiên Thư, Tố của Vũ Hoàng Chương) là một hình tượng vĩnh cửu. "Ta" hay "anh" cũng thế. "Em" hay "ta" hay "anh" được đẩy lên thành một mẫu, một dáng, một nét, một tính cách. "Em" là một cái khác của "ta", của "anh". Bắt chước lối nói của Mai Thảo, ta có thể cho rằng "em" trong thơ HL là một hoài hoài tìm kiếm, một hoài hoài đuổi bắt, một hoài hoài lạc nhau và một hoài hoài tiếc nuối.
Bởi thế mà tình của HL dường như lúc nào cũng là một thứ tình lỡ, tình trễ, tình mất, tình phụ. Anh viết:
Muôn năm, anh là người đến trễ
Chỉ vì:
Ta kiếm quẩn quanh trời cố xứ
Hồng nhan, hồng nhan - ta chiêm bao (28)
Tình anh, rốt cuộc, bao giờ cũng quạnh vắng, hiu hắt:
Em hãy đốt lên giùm anh ngọn lửa
Thử ngọn tình hiu hắt tới bao lâu (108)
Cho nên, cuối cùng:
Yêu vô vàn cũng rớt giọt tình không (19)
Tình yêu đó là "ngọn tình", "giọt tình". Ngọn hay giọt là một cái gì mong manh, chập chờn, thoáng chốc. Tất cả chỉ vì người tình của anh luôn luôn trốn chạy, luôn luôn có đó và không đó, luôn luôn không bao giờ bắt được, luôn luôn thoát khỏi anh:
Mưa ngày xưa bây giờ chưa biết
Buồn đời ta, không đời ai bằng
Ngày xưa, ôi cái ngày xa lắc
Mà em đi chẳng nói chẳng rằng (54)
Đã tới ngày em bỏ quên ta
Che tay kỷ niệm ngó mơ hồ
Nắng gió trong lòng em bất chợt
Em vừa giết một đứa làm thơ (32)
Không những chỉ thế. Thử nghe HL tâm sự trong những giòng
khác:
Những sớm qua cầu, ta gọi bớt hơi sương
Những trưa khô che dùm tóc mỏi
Con đường quen bụi lầy cố xứ
Em về, ta lặng lẽ mưa bay (145)
Áo trắng em qua trời phố nhỏ
Khi lòng ta còn muốn làm mây
Dẫu nhiều năm cùn mòn vó ngựa
Vẫn hí tương tư những tiếng đầy (126)
Vậy thì đã rõ, đâu phải chỉ mình em trốn khỏi tôi, mà ta cũng trốn khỏi em. Nói đúng hơn, anh và người tình của anh luôn luôn trốn khỏi nhau.Trên sân khấu cuộc đời, hình như họ luôn luôn đánh mất nhau. Và có thể vì vậy mà họ yêu nhau, cần phải yêu nhau. Hay nói một cách khác nữa, tình yêu vốn ở chỗ hoài hoài thất bại:
Về, ta sững cuộc đổi đời
Đổi đời ta nhỏ hơn đời đổi em
Còn nhau đâu mà trông tìm
Mất nhau từ thuở chưa chìm nổi kia (50)
***
Tình của Hoàng Lộc còn dính dáng đến rượu. Có lẽ ít tập thơ tình nào có nhiều rượu như tập thơ tình HL. Tôi hơi tò mò: toàn tập thơ có 12 bài có tựa đề mang từ "rượu". Và ít nhất 12 bài khác có "hơi rượu". Tất nhiên, hầu hết là "rượu tình" (hay là tình rượu?). Theo tôi, nhưng bài thơ có hơi rượu nằm trong số những bài hay nhất trong tập thơ của Hoàng Lộc. Tình nhiều. Mà rượu cũng lắm!
Đối với người đông phương, rượu mang nhiều ý nghĩa. Và do đó, nó đã đi vào văn chương từ ngàn xưa:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Và nay:
Chén tiễn chén đưa
Cho rã rời một đêm hẹn ước
Xếp áo tìm vui nơi chiến trường có bạn có thù (Trầm Tử Thiêng)
Rượu, hay chén rượu đã thành tập tục, hơn thế nữa, một nghi lễ, một sinh hoạt khá thiết thân: rượu khi vui, rượu khi buồn, rượu dành lúc tiễn đưa, rượu mừng ngày hội ngộ. Nhiều khi chén rượu được rút gọn thành chén: chén quan hà, chén ly bôi, chén hoàng hoa, chén tiễn chén đưa, đánh chén. Rượu giúp con người hưng phấn, quên buồn và đa tình như HL. Rượu của HL dính với tình, quanh quẩn với tình. Anh uống khi chia xa, lúc gặp gỡ, khi tiếc nuối, lúc buồn phiền, khi thất chí. Anh uống một mình hoặc với bạn hoặc với người yêu. Nhiều lúc anh uống tưởng tượng và say tưởng tượng.Ta chẳng biết anh uống rượu hay uống tình, anh say rượu hay say tình. Tôi tò mò tìm xem cái loại rượu của anh HL là loại gì và cách anh uống như thế nào. Này nhé, trong HL, ta có: rượu hồng nhan, rượu hoàng hoa, rượu tàn đông, rượu tống mùa thu, rượu buồn, rượu đắng, rượu nồng, rượu thất tình, rượu chiều, rượu tàn niên, rượu khốn cùng, rượu điêu tàn - và có lẽ còn nữa, nhưng tôi tìm chưa hết.
Vài đoạn thơ có rượu:
Đời nhỏ tưởng chừng dăm hớp rượu
Ai hay sầu chật một hồn đời
Ta kiếm quẩn quanh trời cố xứ
Hồng nhan, hồng nhan, ta chiêm bao (28)
Mặc những lần xuân tuyệt mù trước ngõ
Mặc những loài chim không hề hót nữa
Rót rượu buồn đi - hồng nhan, hồng nhan
Anh uống giùm cô chỗ rượu điêu tàn(100)
Bữa rượu chiều ta,em ở đâu?
Mang mang lưng chén cái thương sầu (130)
Giá có em cùng chia chút rượu
Dễ khi gió đã lặng bên trời (151)
***
Hoàng Lộc yêu, Hoàng Lộc thất tình, Hoàng Lộc uống rượu. Yêu đủ cách mà uống rượu cũng đủ cách. Đa đoan quá chăng? Nát rượu quá chăng? Không ! Bên dưới những tình, những rượu đóchứa đựng một cái gì khác. Những bài thơ của Hoàng Lộc, rốtlại, y như một tiếng thở dài sâu lắng của cuộc tồn sinh. Tình của anh, như anh có lần bảo, đâu chỉ là tình, mà còn là một "nhịp thở trần ai":
Chia cho nhau từng nhịp thở trần ai.
Những cô em mười sáu tuổi hay những cô em "đổi đời" không có tuổi, những mối tình thấp thoáng hay mặn nồng, những gặp gỡ và dang dở tình cờ hay những chén rượu tình nồng chỉ là hình ảnh hiện thân cho nỗi bất an, khắc khoải trước những đổi thay liên tục , trước định mệnh, trước những phù phiếm, hư huyển của thời gian, của cuộc lữ. Chả thế, mà nhiều lần Hoàng Lộc nhắc đến chữ "biển dâu" trong thơ. Đời biển dâu mà tình cũng biển dâu :
Lúc anh về bé vừa lên mười sáu
Rất dịu dàng nhưng rất lạ đời anh
Khi đưa tay gõ vội trái tim mình
Nghe sai lỡ như một lần dâu bể (19)
Gió bên đời bỏ mặc lá thu bay
Rồi nếu cần em sẽ biển dâu ngay
Tình và rượu chứa đựng cái mất, cái còn:
Dễ những nương dâu bảo dừng biển lại
Mà cái mất cứ xui lòng khổ mãi (101)
Giá có em ngồi, ta kể lại
Mỗi biển xanh từng hóa ruộng dâu (151)
Cũng là dâu biển, nhưng trong một bài thơ khác, anh nói đến cuộc thăng trầm:
Rượu tàn niên chừ gió xa xăm
Gió chi thổi riết mấy mươi năm
Quán cô hồn một ta chớ mấy
Sợ - mà khinh - những cái thăng trầm (150)
Thăng trầm, biển dâu, đó là ám ảnh không nguôi chuyên chở trong những giòng thơ tình ngấm rượu của nhà thơ đất Quảng Hoàng Lộc, một "hào sĩ" như anh tự nhận trong một lần say khước ở Hội An, quê anh:
Nhớ em, nhớ buổi trăng tàn khuyết
Quán cuồng, hào sĩ cũng rưng rưng
Như ta, dễ một lần ta khóc
Em hát liêu trai khúc nguyệt cầm (29)
9/1999
Trần Doãn Nho
Thứ Năm, 11 tháng 12, 2008
thơ viết ở chân cầu
ôi chồng em dễ chi là Từ Hải
mà ta tin còn một buổi qui hàng
nên em ạ dù Nguyễn Du sống lại
cũng điếng hồn cho Kim Trọng lang thang
ta đã lang thang mấy lần Kim Trọng
từ hôm qua goá bụa một phần đời
có mỏi mắt trên Tiền Đường nổi sóng
thì bạc lòng em vẫn bạc lòng vui…
như bến bãi mười năm rồi cát lở
có ngậm ngùi đến mấy cũng bằng không
cái thất thế khoanh đời ta một xó
gọi tình xưa em tay bế tay bồng
ta có đến vịn vai cầu mấy bận
đứng trông trời mây trắng hãy còn bay
bóng hiu hắt thả đôi bờ, nước cuốn
em qua cầu thuở đó chắc không hay
hoàng lộc
Thứ Ba, 9 tháng 12, 2008
than thở với cái xương sườn
1.
bộ xương sườn của anh
Chúa bẻ liền một cái
đủ bùa phép linh tinh
mới làm ra em đấy
nhìn anh - cười - Chúa phán :
- cái này là của con
giữa cõi đời thê thảm
biết đâu con đỡ buồn !
2.
những ngàn năm đã qua
mầy kiếp đời anh trải
tìm em, tìm không ra
hông sườn anh…đau mãi...
cõi đời nào thê thảm
hơn là cõi đời này ?
sau những mùa kiếp nạn
mới tìm được em đây !
chính màu xương của anh
lẫn đường gân thớ thịt
ôi, ơn chúa lòng lành
ghép sườn xưa đúng khít
3.
sao phía sườn bên phải
không hề nguôi cơn đau ?
sao ngày em trở lại
vẫn thê thảm đời sầu ?
bởi anh khác dần anh
qua ngàn năm vật vã ?
anh làm hỏng dần anh
giữa cõi người xa lạ ?
4.
trong bộ sườn rã mục
chỉ còn em nguyên lành
làm sao anh giữ được
cho dài lâu mối tình ?
hoàng lộc
Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2008
chuyện con thằn lằn
Thạch Sùng còn thiều mẻ kho
huống chi em em bậu sắm cho đủ đồ
(ca dao)
rằng ngày xưa lão tỷ phú Thạch Sùng
vì thiếu cái mẻ kho trong một lần đánh cuộc
thua nhẵn gia tài - buồn đời - chết tức
hồn khôn nguôi xin hoá kiếp thằn lằn
để từng đêm đâu đó chỗ em nằm
tiếng chép miệng lão già kia tiếc của
em chắc bật cười : sống đời tỷ phú
thì sắm làm gì một cái mẻ kho ?
anh chẳng giàu đâu, anh chỉ làm thơ
thiếu lắm thứ nên dám nào đánh cuộc
mỗi bước tới – anh dặn mình : bước chót !
mà lối đời cứ chịu những đòn roi
đời tình anh ví đặt trước gương soi
chẳng giống con nào trong mười hai con giáp
tình chắc thắng mà bất ngờ thua ngược
anh ngó đi ngó lại giống thằn lằn
để từng đêm quanh quẩn chỗ em nằm
tiếng chép miệng dồn mấy hồi chậc lưỡi
Thạch Sùng với anh chung cùng cái rủi
lão mất gia tài – anh mất tình em
anh tiếc ngày khôn xiết, tiếc thâm đêm
những chiu chắt một đời không thể giữ
em vốn liếng của lòng anh tỷ phú
mà chính em đành thiếu cái mẻ kho !...
hoàng lộc
huống chi em em bậu sắm cho đủ đồ
(ca dao)
rằng ngày xưa lão tỷ phú Thạch Sùng
vì thiếu cái mẻ kho trong một lần đánh cuộc
thua nhẵn gia tài - buồn đời - chết tức
hồn khôn nguôi xin hoá kiếp thằn lằn
để từng đêm đâu đó chỗ em nằm
tiếng chép miệng lão già kia tiếc của
em chắc bật cười : sống đời tỷ phú
thì sắm làm gì một cái mẻ kho ?
anh chẳng giàu đâu, anh chỉ làm thơ
thiếu lắm thứ nên dám nào đánh cuộc
mỗi bước tới – anh dặn mình : bước chót !
mà lối đời cứ chịu những đòn roi
đời tình anh ví đặt trước gương soi
chẳng giống con nào trong mười hai con giáp
tình chắc thắng mà bất ngờ thua ngược
anh ngó đi ngó lại giống thằn lằn
để từng đêm quanh quẩn chỗ em nằm
tiếng chép miệng dồn mấy hồi chậc lưỡi
Thạch Sùng với anh chung cùng cái rủi
lão mất gia tài – anh mất tình em
anh tiếc ngày khôn xiết, tiếc thâm đêm
những chiu chắt một đời không thể giữ
em vốn liếng của lòng anh tỷ phú
mà chính em đành thiếu cái mẻ kho !...
hoàng lộc
Thứ Tư, 3 tháng 12, 2008
về bữa qua cầu
ta thử qua cầu nghe gió sớm
mới hay mùa lạnh đã vô cùng
tóc sương - gió cứ xô từng ngọn
có đau buồn vạt áo em không ?
dòng sông thì vẫn sông đơn chiếc
trần khi cái bóng một vai cầu
đời kia đã với ta - cay nghiệt
sông về biển, cái bóng về đâu ?
em cũng từng qua cầu gió sớm
cũng từng che nón hỏi mây trôi ?
hèn chi con mắt không rưng mỏi
không mủi lòng em mỗi biển dâu !
ta muốn cùng em qua mấy nhịp
cầu dài, nước lớn, nắng mông mênh
vói tay giùm chút , em - còn kịp
kẻo sóng chìm nghiêng đoá lục bình
hoàng lộc
Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2008
ngoại ô, đêm
tình yêu dường đã cũ
sao buổi chiều còn say ?
đôi ba đồng bạc rượu
để lòng buồn tối nay
cơn mưa dài mỏi mệt
em thăm chi đôi lần
cây đời ta gãy hết
những ngọn tình phù vân
ta như loài bám sống
lòng em thì sang mùa
đã gầy tay bắt bóng
không bắt nổi tình xưa
cứ nghe hoài hơi rượu
nhớ muôn trùng tiếng em
mưa ru câu tình phụ
ngoại ô ta đỏ đèn !
hoàng lộc
Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2008
từ vị hà thủ ô
ông lão họ Hà thấy hai dây dạ giao
ban ngày rời xa – đêm về quấn quít
tình yêu rõ ra mười phần có thiệt
loài dây yêu nhau - cứ đó làm bằng
ông lão thử chơi : lấy củ dạ giao đằng
xắt lát, phơi, sao… – làm nên vị thuốc
tóc lão họ Hà, chòm mây trắng bạc
bỗng đen tuyền nhờ uống củ dạ giao
lão bạc đầu hoá gã Hà thủ ô
hơi hám tình yêu làm đen được tóc
gã lại sống với tình cật lực
sống tới hai lần một đời tình nhân …
anh gặp em - tóc nhuốm màu sương
choán chật lòng anh những gì cần gửi bớt
rồi có bữa bất ngờ em nhận được
những điều tưởng rất trẻ trung kia
những điều em từng lắng lòng nghe
để khắc khoải lo âu - để dật dờ tưởng nhớ
đó – chính những điều ấy đó
lão họ Hà xưa uống của dạ giao đằng
em vuốt giùm anh mái tóc xanh đen !...
hoàng lộc
Thứ Ba, 18 tháng 11, 2008
quá nửa chừng sông
anh với thuyền quá nửa dòng sông
trời đã ngớt thu
lục bình hết hoa cho ngày lang thang
hình như bắt đầu mùa lũ ?
bên kia là bến mộ
nghe đâu nguyễn du nằm ở một miếng đất bồi
gần ngô đức kế…
nghe đâu đêm khuya rền vang cãi cọ
nhân danh đủ thứ cũ mèm
(chẳng hạn chính kiến thói lề…)
không nghe nhắc tới tài hoa
anh quay nhìn
sau thuyền mù mưa
cũng âm thanh nhiều người cãi cọ
cũng về những thứ cũ mèm giống phía bờ kia
bất chợt vài tiếng nổ
lửa chớp chìm mưa
em cách tuổi anh hơn mười năm
làm sao theo kịp ?
anh nhìn nguồn hút mắt
và ngó biển mù tăm
chần chừ, không muốn về bến mộ
cũng không thể quay thuyền
anh gọi em - chỉ sông vẫn sóng
một phút, tìm ra mình
anh tự thuỷ táng anh
11-2008
hoàng lộc
thơ hăm doạ
em thất đức một lần yêu giỡn mặt
bãi thu khô rụng trái nhớ xanh dờn
khi quyết chí đi truy tìm chứng tích
bữa nổi xùng- anh kiện chết em luôn
có lắm thứ chẳng cần chi phỉnh gạt
như câu thơ thơm lựng những ân tình
cánh hoa tím trang thư nào em ép
(gửi cho nhiều chỉ bầm dập đời anh !)
và lắm thứ rất cần anh mê muội
như môi còn bẫm máu nụ hôn xưa
lúc quạnh quẽ anh giật mình tự hỏi
em không yêu sao lại biết yêu đùa ?
sao lại cứ nuốt lời rồi hoá ngọng
cứ hẹn gần rồi vẫy vẫy rời xa
anh tức tối trong sợi tình thắt họng
liệu hồn em – em có bữa…ra toà !
hoàng lộc
Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2008
em về phương xa
thôi mai em về phương xa
ở, đi – thì cũng không là có nhau
còn ta một tấm lòng sầu
theo em (như thuở qua cầu đã theo)
cầm như mặt nước chân bèo
che tay lệ có ít nhiều không em ?
thôi mai đôi xứ đôi miền
ở đi nay - với nổi chìm ngày xưa
ta vừa mỏi cánh tay thơ
tiễn đưa em kể như đưa tiễn mình
thôi mai sương khói xây thành
chim kêu còn biết đâu cành thiên di !
hoàng lộc
Thứ Bảy, 8 tháng 11, 2008
rượu mời sinh nhật
có thể rồi em không uống kịp
nỗi riêng vấp phải lòng ta đau
đã thu trên lá, phai từng chiếc
và cõi muôn trùng đã mất nhau
có thể rồi ta không uống được
rưng rưng nhớ mẹ một phương về
cuối chiều lưu xứ ta vô phúc
chẳng ngõ sau mà gọi gió quê
đã chắt đến khi không thể chắt
chỉ bấy nhiêu . thơ cỗi, đời già
tưởng khóc, mới hay không thể khóc
ngồi giữa ngày sinh một bóng ta
hớp mời em chừng cay dâu bể
hớp mừng ta vẫn đắng tình si
thương em, cũng thương mình vô kể
rượu chắt rồi kia - lại đỗ đi ?
08-11-02
hoàng lộc
lại, một ngày sinh
lại mừng sinh nhật . mừng ta,
kêu chi - kêu chẳng nên lời
từ em áo mỏng nhà quê
trách chăng con thú lạc loài
vểnh râu : chút gió thoảng ngoài áo thơmhết đời, không kịp làn hương
be he một tiếng nghe buồn cách chi !8-11-03
hoàng lộc
Thứ Tư, 5 tháng 11, 2008
với Cao Thoại Châu
Trên blog của nhà thơ Cao Thoại Châu có mục Tác Giả & Người Đọc.
Anh bất ngờ chọn HL để giới thiệu đầu tiên.
Tôi copy cuộc đồi thoại này từ blog anh về đây.
Như một kỷ niệm duy nhất với nhà thơ Cao Thoại Châu - xin cảm ơn anh.
HOÀNG LỘC
Thời gian đăng thơ của chúng tôi coi như khá dài, nhưng do… không hiểu vì sao mà chúng tôi không gặp nhau ngoài đời, phải vì tôi nghĩ người thường “gai góc”, thơ là “tinh hoa” cho nên gần nửa thế kỷ sau từ “biết” mới trở thành “quen”? Hòang Lộc làm thơ tình có những bài thành “kinh điển” và về hoài niệm quê nhà - một người đáng trọng khi viết về quê hương. Định cư ở hải ngoại là “vấn đề của lịch sử”, nhớ, thương, nâng niu và có ý sẽ về sống tại quê nhà là cái đáng yêu nữa của Hoàng Lộc.
Chính vì thế, anh là người được mời khai trương mục “TÁC GIẢ & NGƯỜI ĐỌC" - một cách chọn trong chỉ một phút của tôi này!
CAO THOẠI CHÂU
* CTC: Khoảng năm 1995, một tờ báo ở Sài gòn có đăng hai bài thơ của anh và tôi - ngẫu nhiên hai bài đều nói về quê nhà. Người biên tập giới thiệu đó là bài thơ đầu tiên anh làm trên đất Mỹ, nó có thể là câu trả lời đầu tiên của anh cho cuộc chuyện trò này?
* HL: Chào anh Cao Thoại Châu.
Tờ báo đó được một người học trò cũ chuyển qua cho tôi – và bởi nhiều lần thay đổi chỗ ở nơi này – tôi đã làm thất lạc! Trong trí nhớ, còn thấy mình cùng một trang thơ – bài thơ anh đi trước bên tay trái và bên phải trang báo là bài của tôi. Tôi còn cảm giác rất vui khi anh em mình – sau bao nhiêu thăng trầm, lại có thơ đăng chung một tờ báo – mà tờ báo lại vẫn là ở Sài Gòn, quê hương của thơ thế hệ anh và tôi.
* CTC: Bắt đầu từ tờ Bách Khoa những năm 60, tôi biết đến anh như một nhà thơ “chuyên trị” thơ tình, nay đọc thêm mới hay đó là những bài… thất tình. Bản lĩnh tới đâu mà thơ ấy vẫn chân thật, dịu dàng và dung dị để còn… gầy một cuộc tình khác? Một bài thơ thất tình nào ngăn ngắn nhưng rất Hoàng Lộc?
* HL: Ôi anh, thơ thất tình cũng là thơ tình vậy? Bản lĩnh? Ý anh muốn nói bản lĩnh về… chữ nghĩa hay về… sự dung, tĩnh tại, về một cách buồn mà không đổ gục? Có thể lý giải cho vui như thế này: Tán tỉnh dở quá nên phải thất tình – và nhờ thất tình nặng quá nên mới có xúc động đầy và thật cho thơ. Từ đó mới có thơ chân thành và dung dị, như anh khen.
Hồi tôi mới nằm trong trại hơn một tháng, cô nàng trong thơ tôi đi lấy chồng. Lấy nhanh và sớm quá (mới gần 20 tuổi). Tôi có bài thơ bốn câu, bị một nhà văn nữ bên này chê tôi… “hỗn hào với …người yêu”:
mồ tổ nhà em loài bất nghĩa
một năm hai tháng – đã quên rồi
ta như con chó không buồn sủa
chỉ gầm gừ ngó cuộc tình trôi
* CTC: Té ra nhà thơ cũng có lúc cáu kỉnh? Một bài báo ở VN viết về Hoàng Lộc có trích câu “xa xôi vậy mà răng gần gũi, tôi sờ tay lên màn hình như chạm tới quê nhà”. Rất thơ đấy hơn là một câu nói và “quê nhà” có đúng là một trong hai chủ đề thơ Hoàng Lộc? Quê nhà nặng bao nhiêu so với… trọng lượng cơ thể của anh?
* HL: Thật ra câu đó là cách diễn đạt riêng của Đặng Ngọc Khoa, một nhà báo khi phỏng vấn tôi. Nhưng đúng Quê Nhà là một chủ đề lớn của thơ tôi. Có thể nói không có Quê Nhà, không có thơ HL ở xứ này.
Tôi tâm đắc với anh khi anh nói: làm sao có cái gọi là quê hương thứ hai cho một người! Tôi xa xứ khi ở tuổi tri thiên mệnh mà – và với những người như anh, như tôi – làm sao dễ hội nhập, dễ bị … đồng hoá được?
Khi lìa quê, chỉ nặng có 47 ký, nay tôi 60. Tôi thuộc loại trọng lượng cơ thể tỉ lệ thuận với sức nặng Quê Nhà. Và cũng lắm người thì tỷ lệ nghịch! Anh ơi, cha mẹ, bà con, bằng hữu, người tình, đất và … kỷ niệm… sao không nặng chứ - phải không anh ?
* CTC: “Là lúc hồn ta ngồi với rượu / Khi không uống trúng nỗi niềm riêng / Ước thề thả thử lên đầu gió / Hất cái buồn kia qua một bên”. Có phải đó là nỗi niềm riêng như anh viết “ Và có lẽ ở xứ người lâu năm - tôi cũng như nhiều bạn văn cùng thế hệ - hình như dần dần không còn đề tài để viết…” vì quê nhà thì xa lắc xa lơ, tình cũ cũng “cổ” dần?
* HL: Niềm riêng là của chữ tình và nỗi cô độc.
Có lần tôi phát biểu rất thành thật: nơi tôi định cư (Memphis tiểu bang Tennessee) quá ít đồng hương - lại không người biết đọc thơ nên tôi cô độc. Thế mà tôi bị qui chụp: HL nói ở hải ngoại không ai biết đọc thơ…
Cái qui chụp ấy lại đẩy thêm tôi vào một… niềm riêng khác và cô độc hơn nữa.
Đúng là với một số bạn văn cùng lớp tuổi tôi càng ngày càng giảm sức sáng tác! Lớp trẻ hơn ở thế hệ hai ba sau chúng tôi thì có nhiều tên tuổi nổi hơn. Họ có cái học khác, hấp thụ văn hoá khác chúng tôi và cách viết của họ cũng khác đi.
Quê nhà, ở quê nhà - chắc viết dễ hơn. Như anh, tôi thấy còn sung sức quá. Mơ ước cuối đời tôi là qui cố hương. Nhưng lúc ấy – bút lực còn chừng bao! Cứ nghĩ viết ngắn lại – như thầy Yến Lan về già, cũng không dễ?
* CTC: Không hoàn toàn chia sẻ với anh về cái sự vơi đi của "bút lực". Và cũng không hoàn toàn nhất trí cao với anh khi anh nghĩ về Nguyễn Du “Cầm trái tim cô Kiều lưu lạc/ Ông quỳ xin tội với vua Lê”. Thế hệ chúng ta dâu bể quá chừng, có nên để một người tài hoa như Nguyễn Du làm thế?
* HL: Anh ơi, khi viết bài thơ ngắn ấy – tôi không dám đụng đến cái tuyệt thế tài hoa của cụ Nguyễn. Chỉ là vì qua bao nhiêu dâu bể như anh nói và nhìn bao nhiêu cảnh đời của bằng hữu và người chung quanh - bỗng dưng tôi nghĩ đến một thái độ ngu trung. Tôi từng ứa lệ trước cái chết của Bá Di Thúc Tề, khi cả hai chối từ một sự đổi đời, cho dù đời đổi cho các ông một thánh quân như Châu Võ Vương.
Tôi kính mộ cái chọn lựa tình cảm đầu tiên trong đời một người – và sự nhất quán tôn thờ của người ấy với sự chọn lựa ấy. Cho nên tôi coi thường những ai, trong tình yêu mà tấm lòng bị chia năm xẻ bảy ra…
Mong anh và độc giả hiểu khác hơn một tí về hai hình ảnh vua Lê và cụ Nguyễn trong bài thơ.
* CTC: Ngoài vụ hình anh bị ghép vào bài viết về một nhà thơ trùng bút danh đã chết, hơn mười năm trước còn có tác giả viết về một nhà thơ trọng tuổi, đã công bố một bài thơ nói là của người trọng tuổi sáng tác, chép tay và đưa cho anh ta. Liền đó một tờ báo ở Sài Gòn công bố bài đó là của Hoàng Lộc đăng trên Bách Khoa đã lâu. Sao anh hay bị vướng vào những vụ bùng nhùng ấy vậy?
* HL: Vụ có người đăng bài thơ của Hoàng Lộc đã chết kèm hình của HL, là tôi đây, đang sống - coi như đã xong. Đây là lỗi, có người cho là của… ông cụ tôi – khi đặt tên cho tôi lại không… tham khảo danh sách những “nhà” thơ lớn của đất nước để tránh sự trùng lặp thất kính!
Còn vụ bài thơ tôi đã đăng trên Bách Khoa trước 1975 – và được in lại trên một tờ báo chuyên văn học với bút danh của một người khác năm 1991 cũng coi như xong. Người lấy nguyên bài thơ ấy - chỉ sửa lại vài ba chữ, đã yên nghỉ - và chỉ được chính bè bạn ông tung bài thơ lên báo.
Vụ này xảy ra trong thời điểm ấy tôi không nói gì được với ai. Tôi nhớ chỉ Hà Nguyên Dũng, bạn của tôi ,có phản ứng trước nhất, viết thư la ó ngay với tờ báo trên. Nhà báo Phan Kim Thịnh lục tìm tờ Bách Khoa cũ có bài thơ của tôi. Nhà thơ Triệu Từ Truyền đi một bài nhẹ nhàng trên tờ Bông Trang và tờ An Giang Chủ Nhật cũng có bài đặt câu hỏi.
Tôi nhận được thư của vài ba ông ở toà soạn tờ báo ấy phân trần – và nhắn báo với tôi rằng người quá cố còn một cậu con trai gần đến tuổi hiểu biết, xin tôi đừng lên tiếng gì nữa, có thể làm hỏng hình tượng người bố trong lòng cậu bé. Nghĩ cũng đúng nên đã cho qua… Qua bên này, anh Lê Cần Thơ cũng có nhắc lại vụ ấy ở Houston – nhưng tôi vẫn im lặng.
Thơ HL có duyên với những người… tập làm thơ. Theo tôi biết thì đến nay có chừng năm ba người đã lấy thơ tôi, “bê” tứ thơ của tôi vào thơ họ và dĩ nhiên ký tên họ luôn. Điều này làm tôi vui – nhưng bè bạn thì bảo tôi nên… có thái độ.
Anh nghĩ coi – ví dụ tôi có bài thơ với bốn câu mở đầu thế này :
rượu vào ta nói lãng
mùa thu ra mùa đông
rượu vào ta nói sảng
như khi em lấy chồng
Một tay làm thơ trẻ ở Quảng, cũng có 3 câu đầu… của tôi, chỉ khác câu cuối thôi. Chính câu cuối làm hỏng đi cả khổ thơ và nhân cách của gã làm thơ là đi phỉ báng người tình cũ! Anh nghe giùm:
rượu vào ta nói lãng
mùa thu ra mùa đông
rượu vào ta nói sảng
rằng em lấy mấy chồng
Tôi nói sảng trong thơ, còn tay này nói “sảng” cả trong đời. Tôi vui mà không tránh được sự… bực tức.
Và còn nhiều lắm những kiểu gọi là… ảnh hưởng thơ HL như thế.
Tôi có bài thơ Mặc Cho Đời Bụi Phủ - nên một bạn thân chọc tôi: Đời còn không cần lo bụi phủ thì sá chi mấy bài thơ, mấy tứ thơ ấy!
Nhận mail lúc 6giờ VN, vậy: chào Hoàng Lộc buổi sáng! Và chúc… một đêm ngon giấc! Bên ấy có nhờ tiếng gà lên chuồng và báo thức? Cám ơn một tâm hồn dễ yêu. CTC
3-11-2008
Anh bất ngờ chọn HL để giới thiệu đầu tiên.
Tôi copy cuộc đồi thoại này từ blog anh về đây.
Như một kỷ niệm duy nhất với nhà thơ Cao Thoại Châu - xin cảm ơn anh.
HOÀNG LỘC
Thời gian đăng thơ của chúng tôi coi như khá dài, nhưng do… không hiểu vì sao mà chúng tôi không gặp nhau ngoài đời, phải vì tôi nghĩ người thường “gai góc”, thơ là “tinh hoa” cho nên gần nửa thế kỷ sau từ “biết” mới trở thành “quen”? Hòang Lộc làm thơ tình có những bài thành “kinh điển” và về hoài niệm quê nhà - một người đáng trọng khi viết về quê hương. Định cư ở hải ngoại là “vấn đề của lịch sử”, nhớ, thương, nâng niu và có ý sẽ về sống tại quê nhà là cái đáng yêu nữa của Hoàng Lộc.
Chính vì thế, anh là người được mời khai trương mục “TÁC GIẢ & NGƯỜI ĐỌC" - một cách chọn trong chỉ một phút của tôi này!
CAO THOẠI CHÂU
* CTC: Khoảng năm 1995, một tờ báo ở Sài gòn có đăng hai bài thơ của anh và tôi - ngẫu nhiên hai bài đều nói về quê nhà. Người biên tập giới thiệu đó là bài thơ đầu tiên anh làm trên đất Mỹ, nó có thể là câu trả lời đầu tiên của anh cho cuộc chuyện trò này?
* HL: Chào anh Cao Thoại Châu.
Tờ báo đó được một người học trò cũ chuyển qua cho tôi – và bởi nhiều lần thay đổi chỗ ở nơi này – tôi đã làm thất lạc! Trong trí nhớ, còn thấy mình cùng một trang thơ – bài thơ anh đi trước bên tay trái và bên phải trang báo là bài của tôi. Tôi còn cảm giác rất vui khi anh em mình – sau bao nhiêu thăng trầm, lại có thơ đăng chung một tờ báo – mà tờ báo lại vẫn là ở Sài Gòn, quê hương của thơ thế hệ anh và tôi.
* CTC: Bắt đầu từ tờ Bách Khoa những năm 60, tôi biết đến anh như một nhà thơ “chuyên trị” thơ tình, nay đọc thêm mới hay đó là những bài… thất tình. Bản lĩnh tới đâu mà thơ ấy vẫn chân thật, dịu dàng và dung dị để còn… gầy một cuộc tình khác? Một bài thơ thất tình nào ngăn ngắn nhưng rất Hoàng Lộc?
* HL: Ôi anh, thơ thất tình cũng là thơ tình vậy? Bản lĩnh? Ý anh muốn nói bản lĩnh về… chữ nghĩa hay về… sự dung, tĩnh tại, về một cách buồn mà không đổ gục? Có thể lý giải cho vui như thế này: Tán tỉnh dở quá nên phải thất tình – và nhờ thất tình nặng quá nên mới có xúc động đầy và thật cho thơ. Từ đó mới có thơ chân thành và dung dị, như anh khen.
Hồi tôi mới nằm trong trại hơn một tháng, cô nàng trong thơ tôi đi lấy chồng. Lấy nhanh và sớm quá (mới gần 20 tuổi). Tôi có bài thơ bốn câu, bị một nhà văn nữ bên này chê tôi… “hỗn hào với …người yêu”:
mồ tổ nhà em loài bất nghĩa
một năm hai tháng – đã quên rồi
ta như con chó không buồn sủa
chỉ gầm gừ ngó cuộc tình trôi
* CTC: Té ra nhà thơ cũng có lúc cáu kỉnh? Một bài báo ở VN viết về Hoàng Lộc có trích câu “xa xôi vậy mà răng gần gũi, tôi sờ tay lên màn hình như chạm tới quê nhà”. Rất thơ đấy hơn là một câu nói và “quê nhà” có đúng là một trong hai chủ đề thơ Hoàng Lộc? Quê nhà nặng bao nhiêu so với… trọng lượng cơ thể của anh?
* HL: Thật ra câu đó là cách diễn đạt riêng của Đặng Ngọc Khoa, một nhà báo khi phỏng vấn tôi. Nhưng đúng Quê Nhà là một chủ đề lớn của thơ tôi. Có thể nói không có Quê Nhà, không có thơ HL ở xứ này.
Tôi tâm đắc với anh khi anh nói: làm sao có cái gọi là quê hương thứ hai cho một người! Tôi xa xứ khi ở tuổi tri thiên mệnh mà – và với những người như anh, như tôi – làm sao dễ hội nhập, dễ bị … đồng hoá được?
Khi lìa quê, chỉ nặng có 47 ký, nay tôi 60. Tôi thuộc loại trọng lượng cơ thể tỉ lệ thuận với sức nặng Quê Nhà. Và cũng lắm người thì tỷ lệ nghịch! Anh ơi, cha mẹ, bà con, bằng hữu, người tình, đất và … kỷ niệm… sao không nặng chứ - phải không anh ?
* CTC: “Là lúc hồn ta ngồi với rượu / Khi không uống trúng nỗi niềm riêng / Ước thề thả thử lên đầu gió / Hất cái buồn kia qua một bên”. Có phải đó là nỗi niềm riêng như anh viết “ Và có lẽ ở xứ người lâu năm - tôi cũng như nhiều bạn văn cùng thế hệ - hình như dần dần không còn đề tài để viết…” vì quê nhà thì xa lắc xa lơ, tình cũ cũng “cổ” dần?
* HL: Niềm riêng là của chữ tình và nỗi cô độc.
Có lần tôi phát biểu rất thành thật: nơi tôi định cư (Memphis tiểu bang Tennessee) quá ít đồng hương - lại không người biết đọc thơ nên tôi cô độc. Thế mà tôi bị qui chụp: HL nói ở hải ngoại không ai biết đọc thơ…
Cái qui chụp ấy lại đẩy thêm tôi vào một… niềm riêng khác và cô độc hơn nữa.
Đúng là với một số bạn văn cùng lớp tuổi tôi càng ngày càng giảm sức sáng tác! Lớp trẻ hơn ở thế hệ hai ba sau chúng tôi thì có nhiều tên tuổi nổi hơn. Họ có cái học khác, hấp thụ văn hoá khác chúng tôi và cách viết của họ cũng khác đi.
Quê nhà, ở quê nhà - chắc viết dễ hơn. Như anh, tôi thấy còn sung sức quá. Mơ ước cuối đời tôi là qui cố hương. Nhưng lúc ấy – bút lực còn chừng bao! Cứ nghĩ viết ngắn lại – như thầy Yến Lan về già, cũng không dễ?
* CTC: Không hoàn toàn chia sẻ với anh về cái sự vơi đi của "bút lực". Và cũng không hoàn toàn nhất trí cao với anh khi anh nghĩ về Nguyễn Du “Cầm trái tim cô Kiều lưu lạc/ Ông quỳ xin tội với vua Lê”. Thế hệ chúng ta dâu bể quá chừng, có nên để một người tài hoa như Nguyễn Du làm thế?
* HL: Anh ơi, khi viết bài thơ ngắn ấy – tôi không dám đụng đến cái tuyệt thế tài hoa của cụ Nguyễn. Chỉ là vì qua bao nhiêu dâu bể như anh nói và nhìn bao nhiêu cảnh đời của bằng hữu và người chung quanh - bỗng dưng tôi nghĩ đến một thái độ ngu trung. Tôi từng ứa lệ trước cái chết của Bá Di Thúc Tề, khi cả hai chối từ một sự đổi đời, cho dù đời đổi cho các ông một thánh quân như Châu Võ Vương.
Tôi kính mộ cái chọn lựa tình cảm đầu tiên trong đời một người – và sự nhất quán tôn thờ của người ấy với sự chọn lựa ấy. Cho nên tôi coi thường những ai, trong tình yêu mà tấm lòng bị chia năm xẻ bảy ra…
Mong anh và độc giả hiểu khác hơn một tí về hai hình ảnh vua Lê và cụ Nguyễn trong bài thơ.
* CTC: Ngoài vụ hình anh bị ghép vào bài viết về một nhà thơ trùng bút danh đã chết, hơn mười năm trước còn có tác giả viết về một nhà thơ trọng tuổi, đã công bố một bài thơ nói là của người trọng tuổi sáng tác, chép tay và đưa cho anh ta. Liền đó một tờ báo ở Sài Gòn công bố bài đó là của Hoàng Lộc đăng trên Bách Khoa đã lâu. Sao anh hay bị vướng vào những vụ bùng nhùng ấy vậy?
* HL: Vụ có người đăng bài thơ của Hoàng Lộc đã chết kèm hình của HL, là tôi đây, đang sống - coi như đã xong. Đây là lỗi, có người cho là của… ông cụ tôi – khi đặt tên cho tôi lại không… tham khảo danh sách những “nhà” thơ lớn của đất nước để tránh sự trùng lặp thất kính!
Còn vụ bài thơ tôi đã đăng trên Bách Khoa trước 1975 – và được in lại trên một tờ báo chuyên văn học với bút danh của một người khác năm 1991 cũng coi như xong. Người lấy nguyên bài thơ ấy - chỉ sửa lại vài ba chữ, đã yên nghỉ - và chỉ được chính bè bạn ông tung bài thơ lên báo.
Vụ này xảy ra trong thời điểm ấy tôi không nói gì được với ai. Tôi nhớ chỉ Hà Nguyên Dũng, bạn của tôi ,có phản ứng trước nhất, viết thư la ó ngay với tờ báo trên. Nhà báo Phan Kim Thịnh lục tìm tờ Bách Khoa cũ có bài thơ của tôi. Nhà thơ Triệu Từ Truyền đi một bài nhẹ nhàng trên tờ Bông Trang và tờ An Giang Chủ Nhật cũng có bài đặt câu hỏi.
Tôi nhận được thư của vài ba ông ở toà soạn tờ báo ấy phân trần – và nhắn báo với tôi rằng người quá cố còn một cậu con trai gần đến tuổi hiểu biết, xin tôi đừng lên tiếng gì nữa, có thể làm hỏng hình tượng người bố trong lòng cậu bé. Nghĩ cũng đúng nên đã cho qua… Qua bên này, anh Lê Cần Thơ cũng có nhắc lại vụ ấy ở Houston – nhưng tôi vẫn im lặng.
Thơ HL có duyên với những người… tập làm thơ. Theo tôi biết thì đến nay có chừng năm ba người đã lấy thơ tôi, “bê” tứ thơ của tôi vào thơ họ và dĩ nhiên ký tên họ luôn. Điều này làm tôi vui – nhưng bè bạn thì bảo tôi nên… có thái độ.
Anh nghĩ coi – ví dụ tôi có bài thơ với bốn câu mở đầu thế này :
rượu vào ta nói lãng
mùa thu ra mùa đông
rượu vào ta nói sảng
như khi em lấy chồng
Một tay làm thơ trẻ ở Quảng, cũng có 3 câu đầu… của tôi, chỉ khác câu cuối thôi. Chính câu cuối làm hỏng đi cả khổ thơ và nhân cách của gã làm thơ là đi phỉ báng người tình cũ! Anh nghe giùm:
rượu vào ta nói lãng
mùa thu ra mùa đông
rượu vào ta nói sảng
rằng em lấy mấy chồng
Tôi nói sảng trong thơ, còn tay này nói “sảng” cả trong đời. Tôi vui mà không tránh được sự… bực tức.
Và còn nhiều lắm những kiểu gọi là… ảnh hưởng thơ HL như thế.
Tôi có bài thơ Mặc Cho Đời Bụi Phủ - nên một bạn thân chọc tôi: Đời còn không cần lo bụi phủ thì sá chi mấy bài thơ, mấy tứ thơ ấy!
Nhận mail lúc 6giờ VN, vậy: chào Hoàng Lộc buổi sáng! Và chúc… một đêm ngon giấc! Bên ấy có nhờ tiếng gà lên chuồng và báo thức? Cám ơn một tâm hồn dễ yêu. CTC
3-11-2008
Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2008
khi phải rời xa
là lúc còn ta ngồi với rượu
khi không uống trúng nỗi niềm riêng
ước thề thả thử lên đầu gió
hất cái buồn kia sang một bên
tưởng vậy mà không làm được vậy
đôi ba chén nhỏ đã cay lòng
đã nghe thu xuống tay tàn úa
hiên cúc nhà ai rụng mấy bông
là lúc trong em chừng đổi khác
quay lưng bước vội phía ngày vui
ta ra cuối bến coi bèo giạt
mới hiểu tình sông cạn hết rồi
lòng cũ không còn câu chuyện cũ
say đâu tránh nổi cuộc chia lìa
nghĩa ân em cứ tràn trong rượu
xơ xác đời ta trận gió khuya
hoàng lộc
Thứ Năm, 28 tháng 8, 2008
của một bài thơ lận đận
bài thơ nhờ bàn tay đưa
định sang nhà – lại trời mưa xuống rồi
trong thơ anh kể chuyện đời
giọng buồn hiu có bồi hồi em không ?
trong thơ anh kể chuyện lòng
phận người ta, chút long đong phận mình
ngập ngừng – vẫn ngập ngừng anh
câu thơ kia lại tỏ tình rồi sao ?
bài thơ nhờ bàn tay trao
định sang – mà nỡ trời nào hết mưa
đành cho câu một chữ thừa
đã khuây khoả chút lòng ngờ chưa em ?
dấu than dấu phẩy đừng quên
xin câu thơ rõ giùm thêm ý người !
trang thơ anh gấp làm đôi
muốn sang – biết có tạnh trời mà sang …
hoàng lộc
định sang nhà – lại trời mưa xuống rồi
trong thơ anh kể chuyện đời
giọng buồn hiu có bồi hồi em không ?
trong thơ anh kể chuyện lòng
phận người ta, chút long đong phận mình
ngập ngừng – vẫn ngập ngừng anh
câu thơ kia lại tỏ tình rồi sao ?
bài thơ nhờ bàn tay trao
định sang – mà nỡ trời nào hết mưa
đành cho câu một chữ thừa
đã khuây khoả chút lòng ngờ chưa em ?
dấu than dấu phẩy đừng quên
xin câu thơ rõ giùm thêm ý người !
trang thơ anh gấp làm đôi
muốn sang – biết có tạnh trời mà sang …
hoàng lộc
Thứ Năm, 7 tháng 8, 2008
về em, câu thơ lớn
em là câu thơ lớn
đoá đại hồng nở muộn
trên cành hồn trăm nămta đọc hoài câu thơ
em thơm lừng nét chữkinh thi thêm một tờ
rộn ràng trăng thục nữbiết rằng câu thơ lớn
thường viết ở cuối đờibiết rằng hoa nở muộn
hương thầm nên khó phaita dặn mình đừng nên
làm câu thơ bật khócxin đọc – tràn trong em
những điều chưa từng đọcta ai hoài đời ta
chưa xong bài tứ tuyệtcâu thơ lớn tìm ra
thì trần gian sắp khép !hoàng lộc
Thứ Ba, 1 tháng 7, 2008
làm bạn cùng em
có đành là bạn nhau không ?
hỏi em, rồi lại ngập ngừng hỏi ta !
lẽ đâu phải buổi trăng tà
lẽ đâu vườn quạnh lòng hoa mãi ngờ ?
trễ tràng suốt một đời thơ
hợp tan chừng đủ sững sờ bèo mây
được làm bạn với em đây
nỗi chung chạnh trái tim đầy nỗi riêng
hai ta một xứ đôi miền
tờ thư lạc mỗi đêm chìm lẻ loi
đã đành bạn của em thôi
lòng như có biển, nào nguôi thuỷ triều
7-1-03
hoàng lộc
Thứ Hai, 9 tháng 6, 2008
cho ngày hờn dỗi
em hờn anh một ngày trời ?
em hờn anh suốt một đời, được không ?
trái tim khốn khổ quá chừng
mới reo mà đã muốn ngừng - lạ chưa ?
đời tình anh với đời thơ
đã hiu hắt thuở đèn khô cạn dầu
mỗi lần gỏ cửa mai sau
là lần gặp cõi ban đầu lãng quên
đã như nắng tỏ sương chìm
trắng đen nào nỡ làm em dỗi hờn
em ghen với một đời buồn ?
em ghen với cái-chẳng-còn được sao ?
hoàng lộc
Thứ Năm, 29 tháng 5, 2008
nghe Ai đọc thơ
đời tình anh trẻ dại
mà câu thơ đã già
ngồi nghe em đọc lại
anh ghìm anh . lệ nhoà
giọng em từ chim non
vang lời thơ ray rứt
em bao nhiêu thứ còn
anh muôn nghìn cái mất
thơ viết từ trái tim
đời, nào ai xúc động ?
anh tin chính lòng em
cũng bên ngoài tiếng vọng
bài thơ là chuyện cũ
người trong thơ về đâu ?
người đọc thơ muốn hỏi ?
ngồi nghe em đọc lại
anh ghìm anh . lệ nhoà
giọng em từ chim non
vang lời thơ ray rứt
em bao nhiêu thứ còn
anh muôn nghìn cái mất
thơ viết từ trái tim
đời, nào ai xúc động ?
anh tin chính lòng em
cũng bên ngoài tiếng vọng
bài thơ là chuyện cũ
người trong thơ về đâu ?
người đọc thơ muốn hỏi ?
anh thương anh . cúi đầu ...
hoàng lộc
hoàng lộc
Thứ Tư, 21 tháng 5, 2008
về câu thơ buồn ấy
em ngát hương quê nhà
ta xốn hồn lưu viễn
cuối chiều, mưa còn sa
tình đi, khi mới đến ?
tóc ta bồng sợi trắng
tóc em xanh sợi dài
chênh chao từng ước hẹn
nên hoài hoài đơn sai
em nuôi lòng lạnh giá
thương thơ - không thương người
(mơ hồ như quá khứ
làm khổ ai một thời ! )
em chẳng hề hay biết
em cũng là câu thơ
chỉ mình ta đọc được
để buồn suốt đời ta ....
3-2-03
hoàng lộc
Thứ Hai, 19 tháng 5, 2008
nói, cũng như không
ta nói trăm lần cũng chỉ một câu
em nghe trăm lần một câu trật một
tình ta ví dù như mưa năng hột
cũng chẳng thấm gì cát bãi lòng em
ta nói trăm lần, còn muốn nói thêm
em nghe trăm lần - nước sa đầu vịt
hỏi trái tim mình sao hoài tha thiết
trái tim mỉm cười sau mỗi hoài công
ta nói trăm lần như muối bỏ sông
em như sông trôi, chưa hề biết mặn
ôm một mối tình mà tay cứ trắng
em phải đâu người lạnh ngắt yêu thương !
nghĩ quẩn quanh thôi : cục đá sau vườn
ta hét trăm lần đâu vang tiếng dội
nếu đá là em - thì ta quá tội
bởi có ngàn lần nói, cũng như không ....
hoàng lộc
Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2008
gặp
Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2008
quận Cam từ bữa
kể công
anh xin nhịn đói nuôi người
nghe anh nói vậy - bồi hồi em không ?
miếng cơm dùng để no lòng
dầu kia là để cùng chong ngọn đèn
anh từng chịu đói nuôi em
chắt chiu từng chút êm đềm gửi trao
nỗi mừng khi được còn nhau
nỗi lo cất kỹ ngày sau ngậm ngùi
anh xin nhịn đói nuôi người
canh đêm giấc cỏ bời bời ngọn sương
sợ từng giọt nắng tai ương
tặng em - còn một mùi hương để dành
anh xin chịu đói nuôi tình
rủ thương khó lại nghe mình kể công
hoàng lộc
như bỗng hiền khô
Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2008
chừa
Thứ Năm, 1 tháng 5, 2008
Thứ Tư, 30 tháng 4, 2008
giữa cái-đôi-miền
ơn em gửi một tay cầm
một môi ngoan với mắt đầm lệ vui
cho ta lại biết thương đời
lại ung dung đứng ngó trời hoàng hôn
nghe ra giữa cái-không-còn
thiên thu là chút linh hồn bụi bay
mai chiều ngó lại bàn tay
có khi môi mắt còn đầy lệ xưa?
bước ta - những bước không ngờ
ra đi là đã tìm mơ cõi về
bóng ngày vội nắng vàng hoe
đường gian nan mỏi chia lìa rồi em
thiên thu giữa cái-đôi-miền
bàn tay vẫy tiếng chiều im xuống hồn
9-05
hoàng lộc
tôi bỗng mồ côi
khi được chú tôi bịt khăn chế lên đầu
tôi thắp nén hương trên bàn thờ mẹ.
lời than bật ra - (tiếng gào thơ dại) :
mẹ ơi - ba đã chết rồi !
khi tôi quì cúng cơm cha tôi dâng dĩa bún xào
ngước nhìn linh vị tấm lòng xốn đau,
thương mình bất hiếu lần đầu
trong đời tôi mời cơm cha !
chính lúc trở về - tôi bỗng mồ côi
(ôi tôi cũng có ngày mất cha mất mẹ !)
tay bưng bát hương, chân trần cát xé
tôi khóc ròng cùng nghĩa trang....
cha mẹ trên bảy mươi mà tôi còn long đong
cha mẹ trên tám mươi tôi đành lạc xứ
mẹ tôi yên nằm khi tôi cuối bể
cha ngoài chín mươi, tôi không kịp về !
mất mẹ cha rồi tôi có còn quê ?
tôi có còn em mịt mù thị xã ?
mồ côi - ơi mồ côi - sao tôi đến thế ?
gió hút chiều nghiêng con mắt hỏi trời ....
11-3-08
hoàng lộc
thơ tình viết ở Hội An
ta thật sự muốn đứng hoài một chỗ
mà ông trời cứ đẩy mãi ta đi
và em cũng một đời như gió núp
tóc bay mây thổi suốt buổi anh về
ngày xuân cuối hết hoa - dù hoa ẩn nguyệt
để nghìn trùng cơn gió, nỗi niềm xưa
mẹ già ta đã yên nằm trong đất
quê nhà đây - sao vẫn nhớ quê nhà ?
đến rong bèo còn tấp bến sông Hoài
ta bước mỏi - quay nhìn không dấu bước
mẹ già ta đã tìm qua cõi khác
cố hương còn chỉ một nửa cố hương
phố cũng rồi chỉ nửa phố rêu phong
em, câu cổ thi - nghiêng hồn thục nữ
như vẫn đợi ngó theo mùa trăng cũ
mà trăng đành chỉ sót nửa vầng trăng
ta có muốn đứng hoài đây một chỗ
em có núp một đời như ngọn gió
cũng ngậm ngùi ông trời bắt ta đi
cũng tóc bay mây trắng buổi anh về ...
3-05
hoàng lộc
thơ trên chuyến về
* qua đông kinh, nhớ thời đông du
người nữ tiếp viên thơm đông kinh
long lanh mắt trời sâu đến thế
bước giữa quê cô, đau quê mình
ta tóc trắng kỳ ngoại hầu cường để
** đêm tân gia ba,
thưa cùng ông lý quang diệu
khuya - lỡ đường - ngó sững quê ông
sao ta bỗng nhớ khan cao bá quát
lẽ nào muốn sinh lòng làm giặc
khi lắm điều muốn nói - chẳng còn vua
ông cười ta đã không thể người xưa ?
*** bay trên biển việt
mỏi mắt dòm qua cửa kính che
biển thân quen dưới lớp mây kề
năm năm một nỗi đời lưu xứ
mũi nghếch lòng run ngửi gió quê
**** phố gái sài gòn
em chạy dream II, tay trong găng
mắt bỏ ngoài, mũi miệng sau khăn
em sợ bụi đường , em sợ nắng
hỏi làm sao em đánh hơi anh ?
***** khi đến hội an
tiếng em như mãi kêu thầm
và anh sau những năm năm lại về
mắt nhoà giọt nắng sân quê
bóng cây cất giữ lời thề còn xanh
1997
hoàng lộc
chỗ ngồi đã mất
thời học trò - chiếc ghế dài - ngồi chung
thời dạy hoc - đứng, ba hoa trước bảng
thời làm quan - nằm chưa ngay lưng
đã ở tù, ngủ nền đất ẩm ...
chỗ ngồi - đời cho anh, vô dụng
anh có ngồi đâu ? - anh chẳng được ngồi !
em tìm anh - mỏi cả một đời ?
gặp - em hiểu cả đời anh cũng mỏi
bốn chiếc ghế nhà em - gian giữa
một chiếc - anh ngồi, không thể ngồi lâu
chiếc ghế anh ngồi dẫu chịu ơn nhau
mà tình yêu em cho anh, lầm lỡ ?
khi đứng dậy, nghe lòng dặn nhỏ :
gian giữa nhà em, không có chỗ anh ngồi !
anh bước đi - mỗi bước bồi hồi
đời rộng thế mà người ngồi quá chật
chiếc ghế của anh rõ ràng đã mất !
một chỗ ngồi làm khổ trăm năm
khi anh buớc đi những bước sau cùng ...
trưa - thồ hàng lên dốc,
cong lưng chịu lửa mặt trời
cong hồn đựng mộng cong đời đựng em
xe trèo qua dốc chưa quen
ta trèo chi giữa cũ mèm tháng năm ?
ở đây có tiếng kêu thầm bờ môi,
con mắt, cái cằm hào hoa...
để rồi thở chẳng còn ra
mồ hôi tuôn chút xương da cuối cùng
em chờ cuối dốc đời không ?
đừng trông bên ấy mà trông bên này
ghé giùm anh dưới hàng cây
con chim vừa hót nghe đầy tiếng em ...
1989
hoàng lộc
di chúc
hãy giúp tim anh thêm máu cho đời
khi ngừng đập cõi đa tình oan nghiệt
tay mười ngón ăn năn đừng vuốt mắt
tóc sông dài hãy chảy hết sau lưng
đủ giân hờn để đủ thấy khoan dung
bởi khóc lóc chỉ rầy rà cố xứ
ví một chút tài hoa mà bất tử
hãy mỉm cười - như từng đã - về anh
lo toan chi về những cánh thư tình
có đốt cháy cũng không hề trắng sạch
nghìn trang giấy hoá ra là cổ tích
lâu lâu buồn giở lại đọc mà chơi
đã tới ngày phải yên ổn về xuôi
dẫu lá rớt gặp ngay dòng nước ngược
còn nhớ thuở cùng kề vai hạnh phúc
thì cong lưng đau đớn bớt cho giùm
tình thân nào bỏ lại với người dưng
dẫu bất nghĩa tính đâu lần thăm viếng
đừng nỡ ngó long đong từng kỷ niệm
sau quan tài cát bụi ấy - cần chi !
phố của em xin vừa phải sầu bi
bước thật chậm để khuây lòng rả mỏi
dừng một phút cũng quay đầu ngó lại
mái tình buồn trên mảnh đất chôn nhau
rồi tuỳ em - cứ chửi rủa vài câu ....
hoàng lộc
những tưởng
anh những tưởng còn em trên lối cuối
quay lại nhìn thăm thẳm những ngày qua
đã cô độc không còn nơi cô độc
làm sao anh biết tình còn tình mất
sớm hôm đành không thể được kề vai
anh những tưởng hàng cây rồi phải mọc
cho con đường bớt nắng bớt mù xa
đồi vẫn cao và lũng thấp không ngờ
anh tìm đâu chỗ ven đường nghỉ mỏi
còn em không mà dịu dàng tiếng gọi?
những tưởng về đêm nhờ trăng sao
dẫn anh đi trong đầm đầm ngọn gió
trăng sao thương mắt anh ướt nhoà
lệ cho em không kịp ngừng chảy
thút thít nào - chỉ cũng một anh nghe
và những tưởng có thể trầm mình
cho xong đời sông oan khổ được giết anh
như được dìm cánh bèo lầm lỡ
ôi - nhưng sông vẫn phải chảy một mình
anh vẫn phải đi một mình
(thà như cánh bèo hồn nhiên trôi nổi)
với hư vọng còn em trên lối cuối
để nghe hoài thút thít một phù sinh ...
10-05
hoàng lộc
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)